Vai trò của đồng với cơ thể và ứng dụng của nó trong vấn đề chăm sóc sức khỏe, làm đẹp.

0
2010

Đồng là một nguyên tố vi lượng cần thiết cho cơ thể, là một thành phần trong máu được hấp thụ từ thực phẩm vào cơ thể. Với người bình thường cần 1 lượng 900mg đồng mỗi ngày, khi mang thai thì cơ thể cần 1300mg đồng mỗi ngày.

Đồng đóng vai trò kích thích chuyển hóa collagen để tạo thành mạch, cơ, da, tóc.

Đồng được hấp thụ vào cơ thể dưới dạng đồng hóa trị +2 tồn tại dưới dạng muối khoáng hoặc oxit đồng.

Đồng là loại khoáng chất đã được sử dụng vào việc điều trị và nâng cao sức khỏa từ rất lâu và ở rất nhiều nền văn minh từ thời thời đại đồ đồng đến nay.

Người Sumer (~ 4000 Hàng2300 B.C.), đã sử dụng malachite nghiền thành bột (muối khoáng đồng cabonate) cho các mục đích y tế chung; các nền văn hóa Ai Cập cổ đại (~ 3900 -1550 B.C.), người cũng đã sử dụng malachite nghiền thành bột để phòng ngừa và chữa nhiễm trùng mắt, và sau đó (~ 1550 B.C. đến 30 A.D.) để chữa lành vết thương sau phẫu thuật; văn hóa Babylon-Assyrian (~ 1750 trừ539 B.C.), người đã sử dụng các hợp chất khác nhau có chứa đồng, cũng như vòng đeo tay bằng đồng, làm phương thuốc trị liệu chung; văn hóa Ấn Độ cổ đại (~ 2800 Từ 1000 B.C.), đã sử dụng đồng sunfua hoặc đồng sunfat cho các mục đích y tế không đặc hiệu; văn hóa Trung Quốc cổ đại (~ 3000 B.C. đến 1100 A.D.), đã sử dụng đồng (sulfate hoặc sulfide) để điều trị tại chỗ các bệnh về da và mắt và cũng để điều trị nhiễm trùng bằng cách uống đồng; các nền văn hóa Maya, Aztec và Inca (~ 600 trước Công nguyên đến 1500 sau Công nguyên), đã sử dụng gạc ngâm trong dung dịch đồng sunfat để ” khử trùng ” vết thương phẫu thuật; văn hóa Hy Lạp cổ đại (1300 – 323 B.C.), đã sử dụng các chế phẩm đồng để lọc nước uống và điều trị các bệnh về da và mắt khác nhau, rối loạn phổi, âm đạo và đường tiêu hóa, và vòng đeo tay bằng đồng cho viêm khớp; đã sử dụng nhiều hợp chất đồng khác nhau để điều trị các bệnh về mắt và da, viêm amidan, trĩ và điều trị vết thương nói chung; và người Hindu trong nhiều thế kỷ đựng Nước thánh của sông Hằng trong các dụng cụ bằng đồng để giữ cho nước sạch. Cuối cùng, đồng sunfat được sử dụng rộng rãi bởi nhiều người dân ở lục địa châu Phi để chữa lành vết loét và các bệnh về da.

Ngày nay đã có nhiều nghiên cứu cơ bản về việc ứng dụng đồng dưới dạng oxit đồng hoặc muối đồng. Các nghiên cứu tập trung về 2 mặt: một là ứng dụng đồng để tái tạo collagen chống lão hóa da; hai là ứng dụng đồng để chống nấm, vi trùng, vi khuẩn.

Ở vấn đề tái tạo collagen cho da người ta đã tẩm oxít đồng vào sợi vải để may vỏ gối đầu. nghiên cứu cho thấy khi nằm ngủ áp mặt lên vải gối tẩm ôxít đồng thì sau 30 ngày các nếp nhăn đã giảm đi, sự đàn hồi của da tăng lên 9-10%; ở mức độ pilot (quy mô nhỏ thử nghiệm) họ đã tạo sợi tẩm oxít đồng có độ bền 60 lần giặt mà không bị trôi mất oxít đồng để làm vải chứa đồng cho mục đích này. Cùng trong mục đích tạo collagen, băng gạc dán vết thương cũng được chế tạo, thử nghiệm để nhanh làm lành vết thương cũng cho kết quả tốt.

Trong vấn đề chống nấm, vi trùng, vi khuẩn, vải tầm oxit đồng được dùng may tất cho vận động viên để chống nấm, diệt khuẩn chống mồ hôi chân. Vải tẩm oxit đồng được dùng làm quần áo cho bệnh nhân, chăn ga bệnh viện, khẩu trang bệnh viện để chống vi khuẩn và lây nhiễm chéo giữa các bệnh nhân.

Nghiên cứu tập trung vào hướng sử dụng đồng hóa trị 2 dưới dạng oxit đồng để tẩm vải sợi bởi dạng này ít tan trong nước sẽ tồn tại trên vải lâu ngày khi bị giặt hơn là dạng muối sunphate đồng đễ tan trong nước.

Những nghiên cứu cơ bản này thực hiện vào những năm 2010 đến nay, nó cần một thời gian nữa để hoàn thiện công nghệ sản xuất trên các chất liệu để có thể ứng dụng rộng rãi trong đời sống. Làm sao để polyme hóa sợi tẩm bột đồng vào sợi vải theo quy mô công nghiệp cần một thời gian nữa trong tương lai. Lúc đó chúng ta sẽ có quần áo mặc chống lão hóa da và chống khuẩn, khử mùi. Có thể với chị em phụ nữ sẽ có những chiếc quần chip mặc ngừa nấm phụ khoa.

Khác với cơ chế các chất chống nấm hóa học biệt dược như các loại thuốc dạng này được dùng để điều trị nhiễm nấm da đầu và móng tay. Các dạng thuốc này chứa các hoạt chất như clotrimazole, econazole, ketoconazol, miconazol, tioconazole, terbinafine và amorolfine. có tác dụng nhanh tức nhưng nhanh bị phân hủy khi tiếp xúc với nấm thì đồng sunfate hay dạng oxit đồng hóa trị 2 có tác dụng từ từ và ức chế quá trình phát triển của nấm và có tác dụng bền vững rất lâu hết tác dụng nếu không bị rửa trôi. Chính vì khả năng bền và tan được trong nước, nên đồng sunphate là chất lý tưởng ức chế nấm. Nếu pha vào nước rửa vệ sinh, nó sẽ có tác dụng ức chế nấm phát triển trong điều kiển ẩm ướt cho đến khi nào tắm hoặc rửa trôi.

Một điều lý tưởng để áp dụng đồng sunphat vào nước rửa vệ sinh đó là sự cân bằng pH của muối đồng với vùng pH âm đạo. pH âm đạo nằm trong khoảng 3.5-5.5 thì cũng chính là hợp với vùng pH tan trong nước, nếu pH nằm ngoài khoảng này thì đồng sunphát sẽ kết tủa mà không tan. khi hàm lượng muối đồng sunphat là một axit nhẹ khi hàm lượng 1-2% sẽ cho giá trị pH 5,5-3,5. Như vậy muối đồng sunphate sẽ cân bằng pH sinh lý với vùng da âm đạo. Vừa có tác dụng chống nấm diệt khuẩn vừa có tác dụng kích thích tạo tế bào da chống lão hóa da và cơ, nó sẽ giúp cải thiện se khít âm đạo.